7. Cấu trúc luận văn
1.2.1. Về các tục ngữ, tục ngữ, cụm từ cố định trong tiếng Việt
a) Tục ngữ
Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian có công dụng chủ yếu là tổng hợp tri thức dưới dạng các câu ngắn gọn, ngắn gọn, tươi đẹp, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền đạt. Ví dụ:
Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng…
Tục ngữ là kho tri thức thực tiễn vô cùng phong phú và quý giá của nhân dân. Tác giả Chu Xuân Diên đã nêu rõ trong cuốn Tục ngữ Việt Nam rằng tục ngữ không chỉ là hiện tượng ngôn ngữ mà còn là hiện tượng ý thức xã hội. Với vai trò là một hiện tượng ý thức xã hội, tục ngữ là những chứng tích, biểu hiện cách sống thời đại, lối nghĩ của nhân dân. Mặc dù những chứng tích đó tồn tại trong lời nói hàng ngày được nhắc đến trong khuôn khổ những cách nói quen thuộc mà ai cũng dùng, ai cũng hiểu được, nhưng tục ngữ lại là sản phẩm của lối nói dân tộc.
Tục ngữ là những phát ngôn có sẵn hình thành trong lời thoại hàng ngày, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ nắm tâm và dễ lưu truyền. Tục ngữ phần lời ít ý nhiều, vừa giản dị vừa sâu sắc đúng như Hồ Chí Minh nhận xét “rất hay mà lại ngắn”.
Tục ngữ đánh giá mà cụ thể, trong luận văn này là tục ngữ đánh giá con người là một bộ phận của kho tàng tục ngữ Việt. Tác giả Phạm Thị Bích đã định nghĩa: “Tục ngữ đánh giá con người là những câu nhận định, đánh giá về một con người cụ thể (hay một nhóm người cụ thể) không phải như một danh xưng, một sự gọi tên mà là một thông báo, một kết luận được rút ra từ kinh nghiệm từng trải trong thực tế khách quan, từ sự suy luận logic đồng thời là một phán đoán, là hệ quả có thể xảy ra từ sự nhận định, đánh giá bằng câu tục ngữ đó, nhờ đó tục ngữ là những câu răn dạy, bài học đạo đức cho người đời”.
Ví dụ như câu tục ngữ đánh giá về phẩm chất con người: “Miệng ăn đùi gà, tạo bóng chóc”. Câu tục ngữ này để chỉ người chỉ ngồi mà ăn thì của có nhiều bằng núi cũng hết, từ đó cho thấy hệ quả là nếu lười lao động thì dù tiền có nhiều cũng sẽ tiêu tan hết.
Do nội dung có tính khái quát nên tục ngữ đánh giá con người thường được ứng dụng trong các câu đánh giá cả tích cực và tiêu cực để khuyên răn hay đưa ra những bài học về nhân tình thế thái.
b) Thành ngữ
Theo Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt – Mai Ngọc Chứ, Vũ Đức
Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến thì: “Thành ngữ tiếng Việt là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình ảnh và gợi cảm”. Ví dụ:
Nói thánh nói tướng Lừa đừng như ông từ vào đền Chó ngáp phải ruồi
Một số đặc điểm chủ yếu về nghĩa của thành ngữ:
– Thành ngữ có tính tổng thể và tính mới. Nghĩa của một thành ngữ không thể suy ra được từ sự tổng hợp nghĩa của các từ tạo nên nó. Việc tìm hiểu ý nghĩa của thành ngữ trong nhiều trường hợp giống như việc tìm hiểu nghĩa của từ, tức là tìm hiểu nghĩa trong tổng thể chứ không suy máy móc từ các thành tố cấu thành.
– Thành ngữ có tính biểu trưng và theo đó là tính hình ảnh.
– Thành ngữ có tính dân tộc. Việc biểu trưng hóa các đặc điểm miêu tả cụ thể cho các tình huống khái quát được các dân tộc khác nhau thực hiện theo những cách khác nhau. Nói chẳng hạn, để chỉ nước da trắng của người con gái, người Việt nói trắng như trứng gà bóc, trong khi nhiều dân tộc khác nói trắng như tuyết; hoặc cùng diễn đạt ý rẻ, người Việt Nam nói rẻ như bèo, nhưng người Nga lại nói rẻ như củ cải hầm… Bởi vậy, hình ảnh xuất hiện trong thành ngữ cũng sẽ được quan tâm phân tích để rút ra đặc điểm văn hóa Việt Nam.
– Thành ngữ có tính cụ thể, gợi hình ảnh hơn so với các từ đồng nghĩa với chúng. So sánh: lúng túng vợi như gà mắc lông, lúng túng như thợ vụng mất kim, lúng túng như chó ăn vụng bột. Cả ba thành ngữ này tuy cùng biểu thị tính chất lúng túng nhưng mỗi thành ngữ biểu thị tính chất này ở những khía cạnh, góc độ khác nhau – điều không có ở từ lúng túng, và có tính hình ảnh hơn.
– Thành ngữ có tính biểu cảm. Khi sử dụng thành ngữ, người giao tiếp thể hiện rõ thái độ, tình cảm của mình.
Nhờ có những đặc điểm ngữ nghĩa như trên mà thành ngữ được sử dụng rộng rãi và phổ biến đặc biệt là trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. Nội dung và hình thức thể hiện của tục ngữ và thành ngữ trong những câu đánh giá tiếng Việt sẽ được chúng tôi đi sâu trình bày và phân tích trong luận văn.
c) Cụm từ cố định
Trong Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ Hữu Châu đã định nghĩa: “Ngữ cố định là các cụm từ (ý nghĩa có tính chất là ý nghĩa của cụm từ, cấu tạo là cấu tạo của từ), nhưng đã cố định hóa cho nên cũng có tính chất chặt ché, sẵn có, bắt buộc, có tính xã hội như từ”
Ví dụ:
Hết nước hết cái Ba chìm bảy nổi
Đâm bị thóc chọc bị gạo…
Cũng trong công trình này, tác giả đã phân loại ngữ cố định: Tách những ngữ trung gian với cụm từ tự do thành một loại gọi là quán ngữ, những trường hợp còn lại, trường hợp trung gian với từ phức và các ngữ cố định thực sự là các thành ngữ.
d) Quán ngữ tình thái
Có nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu về quán ngữ tình thái. Tác giả Đỗ Hữu Châu (1981, 1996) cho rằng quán ngữ là những cách nói, cách diễn đạt cần thiết để đưa đẩy, chuyển ý hay dẫn ý, để dẫn nhập đề chứ không có tác dụng nêu bật lên một sắc thái của những cái đã có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện tượng, tính chất… chưa có tên gọi. Ví dụ: ai cũng biết, nói tóm lại, cũng thế thôi, không sớm thì muộn, nghĩa là, đáng chú ý là…
Nguyễn Thiện Giáp quan niệm quán ngữ là những kết hợp cố định
được lặp đi lặp lại trong những phong cách chức năng nhất định. Quán ngữ chưa tạo thành một thông báo, vai trò chủ yếu của nó là đưa đẩy, rào đón hoặc nhấn mạnh. Về ý nghĩa cũng như hình thức, các quán ngữ không khác những cụm từ tự do nhưng nội dung của chúng đã trở thành điều thường xuyên phải cần đến trong suy nghĩ và diễn đạt mà chúng được dùng như những đơn vị có sẵn. Ví dụ: của đáng tội, khí không phải (khẩu ngữ), như trên nói, có thể nói rằng…
Các tác giả cuốn “Cơ sở Tiếng Việt” (1998) đã định nghĩa theo lối
chiết tự theo nghĩa đen, quán nghĩa là quen. Vậy quán ngữ là một loại ngữ cố định, được người ta quen dùng. Ví dụ: nói tóm lại, kết quả là, trước hết là…
Như vậy, nói một cách khái quát thì quán ngữ là loại ngữ cố định được quen dùng nhưng ít hoặc không có tính hình ảnh.
Trong luận văn này chúng tôi quan tâm đến các quán ngữ được dùng trong các lối nói đánh giá tiếng Việt. Khái niệm này được tác giả Đoàn Thị Thu Hà gọi là quán ngữ biểu thị tình thái.
Tình thái là một phạm trù ngữ nghĩa – chức năng phản ánh mối quan hệ, thái độ, cách đánh giá của người nói đối với nội dung của phần còn lại trong câu. Quán ngữ biểu thị tình thái được định nghĩa: “Quán ngữ biểu thị tình thái là những tổ hợp từ, những lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay khuôn cấu trúc tương đối ổn định được người nói dùng như một công cụ có chức năng của những tác tử tình thái tác động vào nội dung mệnh đề theo một kiểu nào đó”. Theo đó, quán ngữ chủ yếu tham gia và vào tình thái của câu, nằm trong cấu trúc của ngữ nghĩa – ngữ dụng. Tác dụng của quán ngữ tình thái là làm phương tiện hỗ trợ, tác động vào nội dung mệnh đề, vào ý nghĩa của chỉnh thể câu; đưa vào câu những kiểu tình thái đánh giá, biểu cảm khác nhau, gắn câu với hoàn cảnh giao tiếp thực, tạo nên tính sinh động, uyển chuyển và chính xác của câu nói.
Ví dụ: – Thật ra, trong nghề mật thám, hắn chẳng có tài gì, chỉ là loại lính mới tò te. Nhưng được cái hắn rất táo tợn, liều lĩnh và hay gặp vận may. Như việc bất ngờ gặp chú em nuôi sáng nay chẳng hạn. (18, 290)
Trong ví dụ trên, quán ngữ tình thái “được cái” xuất hiện trong câu để thể hiện một đánh giá tích cực về vấn đề được nói đến, dựa trên tiêu chuẩn của một nghề. Cụ thể trong ngữ cảnh trên, tác giả cho rằng tính cách “táo tợn, liều lĩnh” của người mật thám mới vào nghề là điều tốt, đặc biệt sự may mắn càng là điều mọi người mong muốn, do đó nó được đánh giá tích cực.
Dựa trên cơ sở ngữ nghĩa và sự phân loại của các lối nói đánh giá trong tiếng Việt, chúng tôi chia các quán ngữ tình thái thành hai loại: Quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tích cực và quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tiêu cực. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ quan tâm đến các quán ngữ dù trong bất kỳ ngữ cảnh nào của phát ngôn. Khi xuất hiện trong biểu thức đánh giá, bản thân những quán ngữ này cho biết trước sự đánh giá là tích cực hay tiêu cực mà không phụ thuộc vào yếu tố từ vựng trong biểu thức.
Theo đó, trong luận văn này chúng tôi đã đưa ra một số quán ngữ tình thái luôn luôn mang tính đánh giá tích cực và tiêu cực, đó là:
Quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tích cực: Được cái, Thế/ như thế mới (gọi) là … chứ.
Quán ngữ tình thái mang tính đánh giá tiêu cực: Phải cái, đờ i thủa nhà ai/ đờ i thủa nào/ ai đời/ ai lại, thế (mà) cũng đòi.
Các quán ngữ trên sẽ được chúng tôi trình bày cụ thể trong chương 2 của luận văn.
1.2.2. Về việc sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, cụm từ cố định (ThNTNCTCĐ) để đánh giá tích cực – tiêu cực
Trong việc đánh giá tích cực hoặc tiêu cực, người ta thường sử dụng các thành ngữ, tục ngữ, cụm từ cố định để diễn đạt. Điều này là do những biểu thị ngôn ngữ này đã có ý nghĩa cố định và thể hiện đúng ý nghĩa của nó. Nhưng cần lưu ý rằng không phải lúc nào cũng sử dụng thành ngữ, tục ngữ, cụm từ cố định trong việc diễn đạt đánh giá tích cực hoặc tiêu cực. Đôi khi, người ta cũng sử dụng từ ngữ tự do để diễn đạt.
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung vào việc nghiên cứu và phân tích các thành ngữ, tục ngữ, cụm từ cố định được sử dụng để đánh giá tích cực hoặc tiêu cực trong ngôn ngữ tiếng Việt.
(Kết thúc them bài viết bằng cung cấp thông tin về trường HEFC và link đính kèm)
(Bài viết này được chỉnh sửa bởi HEFC. Xem thông tin tại HEFC)